Bài 1. Tìm tất cả các hàm số f\colon\mathbb{R}\to \mathbb{R} thỏa mãn điều kiện f\left(x+2020f(xy)\right)=f(x)+2020xf(y) với mọi x,y\in \mathbb{R}. |
Lời giải
Giả sử hàm số f thỏa mãn điều kiện f\left(x+2020f(xy)\right)=f(x)+2020xf(y)\tag{1} với mọi x,y\in \mathbb{R}.Cho x=y=-\dfrac{1}{2020} ta được f\left(-\dfrac{1}{2020}+2020f\left( \dfrac{1}{2020^2}\right)\right)=0.
Đặt u=-\dfrac{1}{2020}+2020f\left(\dfrac{1}{2020^2}\right) ta được f(u)=0.
Thay x=u, y=1 vào (1) ta được 2020uf(1)=0\Leftrightarrow uf(1)=0.
- Nếu f(1)=0. Thay x=\dfrac{1}{y}, y\ne 0 ta được
f\left(\dfrac{1}{y}\right)=f\left(\dfrac{1}{y}\right)+2020\dfrac{1}{y}f(y).
Suy ra f(y)=0,\ \forall y\ne 0.
Thay y=0 vào (1) ta được f\left(x+2020f(0)\right)=f(x)+2020xf(0). Chọn x\ne 0, x\ne -2020f(0) thì f(x)=0, f\left(x+2020f(0)\right)=0, từ đó ta được f(0)=0.
Suy ra f(x)=0,\ \forall x\in \mathbb{R}. - Nếu f(1)\ne 0 thì u=0 hay f(0)=0. Từ đó ta có f\left(\dfrac{1}{2020^2}\right)=\dfrac{1}{2020^2}.
Với x,y\ne 0, đặt z=x+2020yf\left(\dfrac{x}{2020^2y}\right).
Thay x bởi \dfrac{x}{y}, y bởi \dfrac{1}{2020^2} vào (1) ta có f\left(\dfrac{x}{y}+2020f\left(\dfrac{x}{2020^2y}\right)\right) = f\left(\dfrac{x}{y}\right)+2020\dfrac{x}{y}f\left(\dfrac{1}{2020^2}\right) = f\left(\dfrac{x}{y}\right)+\dfrac{x}{2020y}. Suy ra f\left(\dfrac{z}{y}\right)=f\left(\dfrac{x}{y}\right)+\dfrac{x}{2020y}.
Thay x bởi y, y bởi \dfrac{x}{y} ta có f\left(y+2020f(x)\right)=f(y)+2020yf\left(\dfrac{x}{y}\right).
Thay x bởi y, y bởi \dfrac{z}{y} ta có \begin{eqnarray*} f\left(y+2020f(z)\right) &=& f(y)+2020yf\left(\dfrac{z}{y}\right) = f(y)+2020y\left[f\left(\dfrac{x}{y}\right)+\dfrac{x}{2020y}\right] \\ &=& f(y)+2020yf\left(\dfrac{x}{y}\right)+x. \end{eqnarray*} Từ đó ta có f\left(y+2020f(z)\right)=f\left(y+2020f(x)\right)+x.
Thay y=-2020f(x) ta được f\left(-2020f(x)+2020f(z)\right)=x.
Từ đó ta có f là toàn ánh.
Thay x bởi 1, y bởi x ta được f\left(1+2020f(x)\right)=f(1)+2020f(x).
Vì f là toàn ánh nên đặt t=2020f(x)+1 ta được f(t)=t-1+f(1),\ \forall t\in \mathbb{R}.
Thay vào (1) ta được f(1)=1 nên f(x)=x,\ \forall x\in \mathbb{R}.
Vậy tất cả các hàm số cần tìm là f(x)=0, f(x)=x.
Bài 2. Cho tam giác ABC ngoại tiếp đường tròn (I) và có trực tâm H. Gọi D, E, F lần lượt là các tiếp điểm của BC, CA, AB với đường tròn (I). Gọi S, T lần lượt là trung điểm của AH, BH và gọi M là điểm đối xứng với S qua FE, gọi N là điểm đối xứng với T qua FD. Chứng minh rằng đường thẳng MN đi qua trực tâm của tam giác DEF. |
Lời giải
Bổ đề. Cho tam giác ABC ngoại tiếp đường tròn (I) và nội tiếp đường tròn (O). Gọi D, E, F lần lượt là các tiếp điểm của BC, CA, AB với đường tròn (I). Gọi K là trực tâm tam giác DEF. Khi đó ba điểm O, I, K thẳng hàng. Chứng minh bổ đề. Gọi A', B', C' lần lượt là giao điểm thứ hai của AI, BI, CI với đường tròn (O). Khi đó ta có B'A=B'I, C'A=C'I nên B'C' là đường trung trực của AI. Do đó A'I\perp B'C'.Chứng minh tương tự ta có B'I\perp C'A', C'I\perp A'B'. Từ đó ta có I là trực tâm tam giác A'B'C'.
Ta có A'B'\parallel DE, B'C'\parallel FE, C'A'\parallel FD nên \triangle A'B'C' đồng dạng với \triangle DEF. Do đó tồn tại phép vị tự biến trực tâm I và tâm đường tròn ngoại tiếp O của \triangle A'B'C' thành trực tâm K và tâm đường tròn ngoại tiếp I của \triangle DEF.

Trở lại bài toán, gọi L, R lần lượt là điểm đối xứng với I qua FE, FD. Ta có IFLE là hình thoi. Do đó ta có FL\parallel IE, FI\parallel LE suy ra FL\perp AE, EL\perp AF. Từ đó ta có L là trực tâm tam giác AEF.
Tam giác AEF nội tiếp đường tròn đường kính AI cho nên ta có \dfrac{AL}{AI}=\cos\widehat{FAE}.(1)
Vì H là trực tâm tam giác ABC và tam giác ABC nội tiếp đường tròn đường kính 2AO nên ta có \dfrac{AS}{AO}=\dfrac{AH}{2AO}=\cos\widehat{BAC}\tag{2} Từ (1) và (2) ta có \dfrac{AL}{AI}=\dfrac{AS}{AO}\Rightarrow \dfrac{AL}{AS}=\dfrac{AI}{AO}.

Lấy điểm M' trên OI sao cho SM'\perp EF.
Ta có \widehat{SLI}=\widehat{AIM'} do đó tứ giác ILSM' là hình thang cân có trục đối xứng EF.
Do đó M' đối xứng với S qua EF. Do đó M'\equiv M, nghĩa là O, M, I thẳng hàng.
Chứng minh tương tự ta có O, N, I thẳng hàng.
Theo bổ đề ta có O, I, K thẳng hàng, suy ra MN đi qua trực tâm K của tam giác DEF.
Bài 3. Cho bảng ô vuông ABCD kích thước 2021\times 2021 gồm 2021^2 ô vuông đơn vị, mỗi ô vuông đơn vị được tô bởi một trong ba màu đen, trắng hoặc xám. Một cách tô màu được gọi là đối xứng nếu mỗi ô vuông đơn vị có tâm trên đường chéo AC được tô màu xám và mỗi cặp ô vuông đơn vị đối xứng qua AC được tô cùng màu đen hoặc cùng màu trắng. Người ta điền vào mỗi ô xám số 0, mỗi ô trắng một số nguyên dương và mỗi ô đen một số nguyên âm. Một cách điền số như vậy được gọi là k-cân đối (với k là số nguyên dương) nếu thỏa mãn các điều kiện sau:
|
Lời giải
Điều kiện cần. Xét cách tô màu xen kẽ đen trắng như bàn cờ (hình vẽ), trong đó vị trí (i;j) được tô đen nếu i+j chẵn, ngược lại thì tô trắng.Xét hai ô trắng bất kì trong bảng ô vuông ở vị trí (a;b), (c;d) với 1\le a,b,c,d\le 2021.
Nếu a+c và b+d cùng chẵn thì a+d và b+c cùng lẻ, do đó một trong hai ô (a;d) hoặc (b;c) được tô màu đen. Suy ra hai ô trắng phải được điền số khác nhau.

Suy ra tất cả các ô trắng ở nửa trên bên phải của bảng phải được điền các số khác nhau.
Do đó ta phải có k\ge 2+4+6+\ldots+2020=\dfrac{2021^2-1}{4}.
Điều kiện đủ. Ta sẽ chứng minh rằng k=\dfrac{2021^2-1}{4} thỏa mãn bài toán bằng phép quy nạp.
Với bảng ô vuông kích thước n\times n với n nguyên dương thì k=\left\lfloor\dfrac{n^2}{4}\right\rfloor.
Dễ thấy khẳng định đúng với n=1, n=2, n=3.
Xét n\ge 4. Giả sử khẳng định đúng với mọi số nguyên dương nhỏ hơn n.
Đánh số các hàng và cột từ 1 đến n. Ta chứng minh rằng với mọi vị trí các ô đen thì luôn tồn tại cách điền các số nguyên dương không vượt quá k_n vào các ô trắng còn lại trong bảng (trường hợp điền số nguyên âm thì tương tự vì tính bình đẳng).
Xét đồ thị G=(V,E) trong đó V là tập hợp các đỉnh, đỉnh thứ i ứng với hàng i với 1\le i\le n, còn E là tập hợp các cạnh, trong đó cạnh nối từ đỉnh thứ i đến đỉnh thứ j nếu như tại ô (i;j) và tại ô (j;i) là tô màu trắng.
Áp dụng định lí Mantel-Turan ta có ``\textit{Nếu đồ thị G=(V,E) không chứa tam giác thì đồ thị G có không quá \left\lfloor\dfrac{n^2}{4}\right\rfloor cạnh}'', hay là trong bảng có không quá \left\lfloor\dfrac{n^2}{4}\right\rfloor ô trắng, do đó có thể dùng \left\lfloor\dfrac{n^2}{4}\right\rfloor số nguyên dương phân biệt để điền vào các ô trắng.
Giả sử đồ thị G=(V,E) có chứa tam giác, chẳng hạn các đỉnh a, b, c được nối với nhau.
Do đó các ô (a;b), (b;a), (a;c), (c;a), (b;c), (c;b) được tô màu trắng. Khi đó các số điền vào các ô trắng đó không nhất thiết phân biệt và tập hợp các ô trắng còn lại (nếu có) trên các hàng a, b, c cũng không nhất thiết phải rời nhau. Rõ ràng trên mỗi hàng còn lại không quá n-3 ô như thế.
Do đó ta có thể sử dụng một số để điền vào các ô trắng ở trên và không quá n-3 để điền vào các ô trắng còn lại trong hàng.
Nếu không tính các hàng a, b, c thì ta còn lại n-3 hàng, theo giả thiết quy nạp thì cần không quá \left\lfloor\dfrac{(n-3)^2}{4}\right\rfloor số nguyên dương cho các hàng đó.
Như vậy tổng cộng ta cần không quá 1+n-3+\left\lfloor\dfrac{(n-3)^2}{4}\right\rfloor=\left\lfloor\dfrac{(n-3)^2+4(n-2)}{4}\right\rfloor=\left\lfloor\dfrac{(n-1)^2}{4}\right\rfloor\le\left\lfloor\dfrac{n^2}{4}\right\rfloor số nguyên dương.
Như vậy trong mọi trường hợp ta cần không quá \left\lfloor\dfrac{n^2}{4}\right\rfloor số nguyên dương.
Từ đó ta có điều phải chứng minh.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét